Thủ tục giữ lại quyền sử dụng đất sau khi chuyển nhượng

16:39 |

Nhà tôi có mảnh đất ruộng rộng khoảng 450m2 nay có công ty tới mua để mở xưởng sản xuất với thời hạn sử dụng là 50 năm.

Vậy tôi muốn hỏi sau 50 năm thì mảnh đất đó ai sẽ được quyền sử dụng? Gia đình tôi hay nhà nước? Nếu là gia đình tôi thì phương thức như thế nào để sau 50 năm nhà tôi lại được quyền sử dụng? Xin chân thành cảm ơn!

Trả lời:

ảnh minh họa



1. Căn cứ Điều 705 Bộ luật Dân sự quy định về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là sự thoả thuận giữa các bên tuân theo các điều kiện, nội dung, hình thức chuyển quyền sử dụng đất được Bộ luật này và pháp luật về đất đai quy định, theo đó người sử dụng đất (gọi là bên chuyển quyền sử dụng đất) chuyển giao đất và quyền sử dụng đất cho người được chuyển nhượng (gọi là bên nhận quyền sử dụng đất), còn người được chuyển nhượng trả tiền cho người chuyển nhượng”.

Theo Điều 713 Bộ luật Dân sự thì người nhận chuyển nhượng đất có các quyền “Yêu cầu bên chuyển quyền sử dụng đất giao cho mình toàn bộ giấy tờ hợp pháp về quyền sử dụng đất; Yêu cầu bên chuyển quyền sử dụng đất giao đất đủ diện tích, đúng hạng đất, đúng loại đất, đúng vị trí, đúng tình trạng như đã thoả thuận trong hợp đồng; Được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với đất được chuyển nhượng; Được sử dụng đất theo đúng mục đích, đúng thời hạn”.

Như vậy, sau khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì Công ty nói trên sẽ được đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và có toàn quyền sử dụng theo nhu cầu và mục đích của họ. Và gia đình bạn đã chấm dứt quyền sử dụng đất kể từ thời điểm chuyển giao.

Về thời hạn sử dụng đất, căn cứ Điều 67, Luật Đất đai năm 2003 thì sau khi hết thời hạn sử dụng đất người sử dụng đất phải giao đất cho Nhà nước hoặc có thể yêu cầu Nhà nước xem xét gia hạn sử dụng đất nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng. Theo đó, không có cơ sở pháp lý để gia đình bạn có thể lấy lại quyền sử dụng mảnh đất trên ngay cả khi mảnh đất trên hết thời hạn sử dụng.

2. Căn cứ Điều 714 Bộ luật Dân sự quy định về hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất thì “Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất là sự thoả thuận giữa các bên tuân theo các điều kiện, nội dung, hình thức chuyển quyền sử dụng đất được Bộ luật này và pháp luật về đất đai quy định, theo đó bên cho thuê chuyển giao đất cho bên thuê để sử dụng trong một thời hạn, còn bên thuê phải sử dụng đất đúng mục đích, trả tiền thuê và trả lại đất khi hết thời hạn thuê”.

Như vậy, nếu gia đình bạn muốn giữ lại quyền sử dụng đất (sau thời hạn cho thuê) thì gia đình bạn nên tiến hành ký kết hợp đồng cho thuê đất với Công ty nói trên.
Công ty Luật Thiên Bình
(Theo LandToday)

Nguồn: batdongsan.com.vn

Chia đất khi ly hôn

16:37 |

Hỏi: Trước đây cha mẹ chồng tôi có sang tên cho vợ chồng tôi 400 m2 đất. Nay vợ chồng tôi ly hôn thì tôi có được chia đất không?

Mai Lan (tohchc@yahoo...)
ảnh minh họa
Trả lời:



Theo khoản 2 Điều 97 Luật Hôn nhân và Gia đình, việc chia quyền sử dụng đất chung của vợ chồng khi ly hôn được thực hiện như sau:

- Đối với đất nông nghiệp trồng cây hằng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu cả hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thỏa thuận của hai bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết. Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng.

- Đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất ở… thì được chia đôi nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản…

- Việc chia quyền sử dụng đối với các loại đất khác được thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật dân sự.

Khi ly hôn, diện tích đất thuộc quyền sử dụng chung của vợ chồng chị sẽ được phân chia theo cách thức trên.
LS NGUYỄN ĐÌNH HÙNG
(Theo PL TPHCM)


Nguồn: batdongsan.com.vn

Thừa kế đất theo pháp luật

16:35 |

Hỏi: Bà ngoại tôi có sáu người con và bà đang đứng tên hai miếng đất. Tại thời điểm này hay khi bà ngoại mất mà không viết di chúc thì mẹ tôi có được phần đất nào không? (vothuyanh@...)

Trả lời:

ảnh minh họa


Nếu đất trên thuộc quyền sử dụng của bà ngoại chị (không phải là đất của hộ gia đình) thì việc mẹ chị có được chia đất vào thời điểm này hay sau khi bà ngoại chị mất tùy thuộc vào quyết định cụ thể của người bà. Muốn cho mẹ chị một phần đất, người bà cần làm thủ tục tặng cho, hoặc muốn để thừa kế đất cho mẹ chị thì người bà có thể lập di chúc nêu rõ nội dung này.

Trường hợp người bà mất không có di chúc thì đất đó thuộc quyền sử dụng chung của sáu người con và theo nguyên tắc thì mẹ chị được hưởng 1/6 diện tích đất.
LS LÊ BỬU THÀNH
(Theo PL TPHCM)


Nguồn: batdongsan.com.vn

Cấp chủ quyền cho phần xây thêm

16:34 |

Hỏi: Hiện tôi muốn mua một căn nhà nhưng giấy tờ sổ hồng ghi phần xây dựng 25,9m2 trong khi phần đất ở lại ghi diện tích 32,7m2. Tôi kiểm tra thì thấy nhà đã xây đủ hết diện tích. Tôi không hiểu sao lại có sự chênh lệch trên?

Mong được giải đáp. Cảm ơn.
chi quynh (quynhchi001@... )

Trả lời:
ảnh minh họa



Theo thư của ông tôi hiểu ông kiểm tra nhà đã xây dựng hết diện tích 32,7m2 trong khi giấy tờ sổ hồng thì ghi phần xây dựng 25,9m2. Trường hợp như thế có các khả năng:

(i) Căn nhà đã xây hết diện tích nhưng khi xem xét cấp giấy chứng nhận, Nhà nước chỉ công nhận diện tích xây dựng là 25,9m2 do phần còn lại là phần đất không được phép xây dựng theo quy hoạch của cơ quan nhà nước đã phê duyệt.

Trong trường hợp này, phần xây dựng vi phạm không được cấp giấy chứng nhận và buộc phải tháo dỡ khi Nhà nước thực hiện quy hoạch;

(ii) Căn nhà trước đây chỉ xây dựng 25,9m2 trên một thửa đất có diện tích 32,7m2 và đã được cấp giấy chứng nhận. Sau đó chủ nhà xây dựng thêm hết toàn bộ diện tích thửa đất (không có giấy phép xây dựng).

Trường hợp này chủ nhà hiện tại phải tiến hành làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu phần nhà ở được xây dựng thêm, sau đó mới tiến hành bán cho ông.

Phần nhà ở được xây thêm có thể được Nhà nước cấp giấy chứng nhận, nếu:

Có giấy tờ xác nhận của UBND cấp xã về nhà ở đã được xây dựng trước ngày 1-7-2006 và đảm bảo các điều kiện:

- Nhà ở không có tranh chấp;

- Được xây dựng trước khi có quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng hoặc phải phù hợp quy hoạch đối với trường hợp xây dựng sau khi có quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch điểm dân cư nông thôn theo quy định của pháp luật.

Trường hợp nhà ở xây dựng từ ngày 1-7-2006 phải có giấy tờ xác nhận của UBND cấp xã về nhà ở không thuộc trường hợp phải xin giấy phép xây dựng, không có tranh chấp và đáp ứng điều kiện về quy hoạch như trường hợp nhà ở xây dựng trước ngày 1-7-2006 nêu trên;

(iii) Phá dỡ nhà cũ (đã có giấy chứng nhận) xây lại toàn bộ diện tích thửa đất nhưng chưa tiến hành xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà (diện tích nhà mới).

Trường hợp này, trước khi bán nhà chủ nhà cũ phải tiến hành xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với căn nhà xây dựng mới. Nếu việc xây dựng nhà mới có giấy phép thì sẽ được cấp giấy chứng nhận như nội dung giấy phép. Trường hợp xây nhà mới không có giấy phép thì việc xem xét cấp giấy chứng nhận tương tự như mục (ii) đã đề cập.

Thân ái chào ông.
LS HUỲNH VĂN NÔNG
(Theo Tuổi trẻ)


Nguồn: batdongsan.com.vn

Quyền về tài sản sau khi đã mua nhà theo NĐ61

16:33 |

Hỏi: Bố tôi thuê nhà của Nhà nước từ năm 1960 đến 1990, lúc đó gia đình tôi có 8 người đều có hộ khẩu cùng ở một nhà, sau đó anh em chúng tôi xây dựng gia đình ở riêng và chuyển hộ khẩu đi nơi khác.

Mẹ tôi chết, một chú em chuyển sang ở riêng ở phần đất lưu không và có hộ khẩu riêng. Còn lại vợ chồng tôi và một người chị vẫn ở lại phần nhà thuê, sau khi bố tôi mất. Nhà nước có chủ trương bán nhà theo NĐ 61 tôi đã bỏ tiền ra mua nhà, chị tôi cũng được mang tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất. Nay người em trai chồng tôi cho rằng phần nhà mà tôi mua theo NĐ 61 có phần tài sản thừa kế của chú ấy, chị chồng tôi tặng cho chúng tôi phần tài sản (quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà) có được không? Yêu cầu của người em tôi có đúng không?
Ngô Thị Hằng (Hoàng Mai)
ảnh minh họa
- Trả lời:




Bố bạn là người thuê nhà của Nhà nước chứ không phải là tài sản riêng của bố, mẹ bạn vì vậy khi bố mẹ bạn chết đi hợp đồng thuê nhà không thể coi là tài sản thừa kế, bố bạn đứng tên hợp đồng ban đầu khi bố mẹ bạn chết đi thì những người thuê thực tế tiếp tục cử người ký tiếp hợp đồng với cơ quan quản lý nhà, ở đây anh em bạn đã chuyển đi nơi khác không còn nhu cầu thuê tiếp nữa mà chỉ còn có vợ chồng bạn và một người chị là còn ở lại nhà thuê và có nhu cầu thuê tiếp.

Bạn đã bỏ tiền ra mua nhà theo NĐ 61, căn cứ theo điều 2, điều 5 của NĐ 61 thì Nhà nước thực hiện bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước cho người đang thuê, ở đây đối tượng đang thuê được xác định trong hộ khẩu thực tế tại nơi ở đang thuê. Cơ quan Nhà nước đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà cho bạn và chị bạn, nay chị bạn đã làm thủ tục tặng cho bạn, tính từ thời điểm trong giấy chứng nhận đã được đính chính do người chị đã tặng cho thì nhà mua theo NĐ 61 là tài sản thuộc về bạn, người em không có quyền can thiệp vào tài sản của bạn.

Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất lại mang tên chồng bạn nhưng tài sản này được xác định là tài sản chung của vợ chồng bạn, nếu chồng bạn không chứng minh được là tài sản riêng của anh ấy, vì tài sản này được xác lập trong thời kỳ hôn nhân nên cho dù được ghi tên chồng bạn nó vẫn là tài sản chung của vợ chồng bạn (Điều 27 - Luật Hôn nhân và Gia đình).
Luật sư Trương văn An
Văn phòng LS Phúc Thọ
(Theo ANTĐ)


Nguồn: batdongsan.com.vn

Có được xin cấp sổ đỏ trước khi chia thừa kế?

09:31 |

Hỏi: Gia đình ông bà nội tôi sinh được 4 người con. Năm 2003 ông nội tôi mất, sau đó năm 2009 bà nội tôi cũng mất, để lại tài sản là một lô đất 1.000m2.

Ông tôi trước đó không để lại di chúc gì cả, nhưng năm 2004 bác tôi lại có sổ đỏ chứng nhận quyền sử dụng đất có diện tích 600m2 trong tổng số đất 1.000m2 đó. Năm 2009 bà nội tôi mất cũng chỉ để lại giấy viết tay dặn chia đều (đất) cho 4 anh em.

Xin hỏi, bây giờ bố tôi có thể yêu cầu tòa án chia lại toàn bộ 1.000m2 đất đó cho 4 người con được không? Các thủ tục như thế nào? Nguyễn Văn Hoạt (nguyenhoatnd@...)

Trả lời

Ảnh minh họa

Để có thể yêu cầu tòa án chia thừa kế đối với toàn bộ quyền sử dụng đất 1.000m2, bố bạn phải chứng minh được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà bác của bạn được cấp đối với 600m2  trong tổng số 1.000m2 nêu trên đã được cấp không đúng quy định của pháp luật.

Trường hợp không chứng minh được hoặc nếu bác của bạn đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cơ sở văn bản tặng cho của ông bà nội bạn, thì bố của bạn sẽ khó có cơ sở để yêu cầu tòa án chia thừa kế đối với phần diện tích 600m2 thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bác bạn.

Ngoài ra, thông tin bạn cung cấp cũng không nói rõ về nguồn gốc thửa đất, như thửa đất có được ông bà nội bạn tạo lập hợp pháp hay không, có các loại giấy tờ chứng minh quyền sử dụng như bằng khoán điền thổ, các giấy tờ của chế độ cũ cấp… hay không.

Vì vậy, để có thể yêu cầu tòa án chia di sản thừa kế đối với 1.000m2 đất trên hoặc 400m2 còn lại nếu bác của bạn đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đối với 600m2 đất nêu trên, thửa đất yêu cầu chia thừa kế phải được xem là di sản thừa kế thuộc quyền sử dụng của ông bà nội bạn để lại.

Việc xác định quyền sử dụng đất là di sản được thực hiện như sau:

1. Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật đất đai năm 1987, Luật đất đai năm 1993, Luật đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản.

2. Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 điều 50 của Luật đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 1-7-2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.

3. Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại mục 1 và mục 2 nêu trên nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ôtô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với quyền sử dụng đất đó mà có yêu cầu chia di sản thừa kế thì cần phân biệt các trường hợp sau:

a. Trong trường hợp đương sự có văn bản của UBND cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì tòa án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất đó.

b. Trong trường hợp đương sự không có văn bản của UBND cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của UBND cấp có thẩm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm quy hoạch và có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất, thì tòa án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất.

Đồng thời phải xác định ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất đó cho đương sự để UBND cấp có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định của pháp luật về đất đai.

c. Trong trường hợp UBND cấp có thẩm quyền có văn bản cho biết rõ việc sử dụng đất đó là không hợp pháp, di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất không được phép tồn tại trên đất đó, thì tòa án chỉ giải quyết tranh chấp về di sản là tài sản trên đất đó.
Luật sư Nguyễn Văn Hậu
(Theo TTO)


Nguồn: batdongsan.com.vn

Vẫn chưa cấp quyền sử dụng đất vì không nộp đủ tiền

09:30 |

Hỏi: Năm 2010, UBND TP Đà Nẵng có quyết định về việc quy hoạch xây nhà cho các gia đình quân đội tại khu C, Bộ tham mưu Quân khu 5 (P.Hòa Thuận Tây, Q.Hải Châu).

Theo đó, mỗi gia đình nộp từ 90-110 triệu đồng để nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nếu nộp trong thời gian từ 29-5 đến 29-7-2011 thì được giảm 10% số tiền. Tuy nhiên, gần một năm trôi qua, dù đã nộp đủ tiền nhưng các hộ gia đình tại đây vẫn chưa nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất? Nhóm tập thể quân nhân khu C, P.Hòa Thuận Tây, Q.Hải Châu

Trả lời

Ảnh minh họa

Ông Đinh Vui (trưởng phòng khai thác quỹ đất, Công ty Quản lý và khai thác đất Đà Nẵng) trả lời:

Ngày 15/2/2011, UBND TP Đà Nẵng đã có quyết định về việc quy định giá đất để thu tiền giao quyền sử dụng đất tại khu C Bộ tham mưu Quân khu 5 với diện tích 8.226m2 có đơn giá là 1,294 triệu đồng/m2.

Đến ngày 2/6/2011, công ty đã ký hợp đồng giao đất có thu tiền sử dụng đất với 64 gia đình quân nhân tại khu C với diện tích 5.767m2. Đến nay, phần diện tích đất còn lại của khu C là 2.458m2, là đất giao thông công cộng để xây dựng cơ sở hạ tầng tương đương 3,181 tỉ đồng vẫn chưa được nộp tiền. Công ty đã gửi công văn báo cáo UBND TP và được trả lời: đề nghị Bộ tư lệnh Quân khu 5 nộp tiền sử dụng đất phần diện tích đất còn lại trước khi TP lập thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình tại đây.

Thượng tá Lê Châu Sinh (trưởng phòng hậu cần, Bộ tham mưu Quân khu 5) trả lời:

Trước nhu cầu về nhà ở của cán bộ quân nhân, Bộ tham mưu Quân khu 5 đã có văn bản xin Bộ Quốc phòng về việc chuyển đổi diện tích đất quốc phòng tại khu C để xây dựng nhà ở và chung cư, hoàn toàn không vì mục đích kinh doanh nhà ở.

Sau khi được các cấp thông qua, những gia đình tại khu C được hướng dẫn làm việc trực tiếp với Công ty Quản lý và khai thác đất Đà Nẵng để nộp tiền sử dụng đất ở. Riêng phần diện tích đất công cộng tương đương 3,181 tỉ đồng, trách nhiệm phải chia đều cho 64 gia đình tại đây, khoảng 49 triệu đồng/gia đình, Bộ tham mưu không chi trả khoản tiền này.

Đơn vị vừa làm việc với UBND TP Đà Nẵng xem xét giảm số tiền này vì các gia đình này phần lớn là cán bộ quân nhân trẻ, đời sống còn nhiều khó khăn.
(Theo TTO)


Nguồn: batdongsan.com.vn

Có được bồi thường thiệt hại do công trình xây dựng gây ra

09:30 |

Hỏi: Nhà tôi đang xây dựng thì nhà bên cạnh khiếu nại lên xã, cho rằng nhà tôi xây dựng làm ảnh hưởng, nứt tường nhà của họ. UBND xã đã tổ chức hòa giải, hai nhà đều có giấy chủ quyền, nhưng việc hòa giải thương lượng hai bên không thống nhất.

Lý do nhà bên kia đưa ra số tiền bồi thường quá cao và UBND xã yêu cầu nhà tôi ngưng thi công xây dựng.

Sau đó, UBND xã tổ chức mời lên hòa giải lần 2. Tôi có yêu cầu mời công ty kiểm định xây dựng, kiểm định xem có phải do nhà tôi xây dựng làm ảnh hưởng nhà bên cạnh, nhưng phía bên kia không đồng ý. Lần hòa giải thứ 2 vẫn không thành và UBND xã đề nghị một trong hai gửi đơn ra tòa án giải quyết.

Xin hỏi, UBND xã hòa giải như vậy có đúng với quy định? Tại sao tôi yêu cầu kiểm định thì UBND xã không xem xét, mà yêu cầu phải gửi đơn ra tòa án? Nếu nhà bên kia kéo dài thời gian, không gửi đơn ra tòa án thì nhà tôi vẫn phải ngưng thi công xây dựng? Tôi có thể gửi đơn ra tòa án không?

Mong được tư vấn. Xin cảm ơn. hoang han (hoanghan2002@... )

Trả lời

Ảnh minh họa

Theo quy định của pháp luật thì UBND cấp xã không có chức năng giải quyết tranh chấp mà chỉ có trách nhiệm hòa giải đối với tranh chấp của bạn nói riêng và các loại tranh chấp khác nói chung theo quy định của pháp luật.

Trường hợp không thể tổ chức hòa giải thành thì tùy vào thẩm quyền giải quyết tranh chấp mà UBND cấp xã sẽ đề nghị một trong các bên tranh chấp gửi đơn khởi kiện đến UBND cấp huyện hoặc tòa án nhân dân có thẩm quyền.

Đối với trường hợp của bạn, nếu không thể thương lượng được với hộ gia đình bên cạnh về giải quyết tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng từ thi công xây dựng dẫn tới việc thi công công trình xây dựng bị đình trệ thì bạn vẫn có quyền chủ động nộp đơn khởi kiện đến tòa án nhân dân có thẩm quyền để được giải quyết.

Trong nội dung đơn, bạn có thể đề cập đến việc đã yêu cầu một tổ chức giám định để kiểm định chấp lượng thi công và hậu quả gây ra (nếu có) (theo đơn khiếu nại lên UBND cấp xã của họ) để làm cơ sở giải quyết việc bồi thường nhưng hộ gia đình bên cạnh không đồng ý thực hiện.

Đồng thời có thể yêu cầu tòa án giải quyết buộc hộ gia đình bên cạnh bồi thường mọi chi phí thiệt hại phát sinh từ việc công trình xây dựng bị đình chỉ thi công kể từ thời điểm hộ gia đình bên cạnh không hợp tác trong việc yêu cầu một tổ chức có chức năng giám định công trình xây dựng để làm cơ sở giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Luật sư Nguyễn Văn Hậu
(Theo TTO)


Nguồn: batdongsan.com.vn

Đất đai bị chồng ranh giới, khi nào xử lý?

09:29 |

Hỏi: Tôi có mua lô đất tại P.Hiệp Bình Chánh, Q.Thủ Đức. Sổ đỏ đất thổ cư 62,14 m2, tôi được cấp giấy phép và đã xây dựng xong như giấy phép.

Nhưng bị chủ đất bên cạnh là ông Hoa khởi kiện tại Tòa án quận Thủ Đức (vào giữa năm 2010) vì đã lấn đất của ông Hoa 10m2 (ngang 0,8 m dài 13,5 m), khi tòa án điều tra thì phát hiện đất bị chồng ranh (tôi không lấn đất).

Đến nay đã gần 2 năm nhưng tòa án không đưa ra xét xử. Nhiều lần tôi lên hỏi tòa án và Phòng tài nguyên - môi trường Thủ Đức thì không bên nào trả lời thời gian giải quyết vụ việc.

Thời gian lâu như vậy có đúng luật không, làm sao để toà án xét xử? Phòng tài nguyên - môi trường làm như vậy có đúng không, làm sao để tôi được cấp GCN QSD nhà và đất? nguyenconghoang, (nguyenconghoang2002@...)

Trả lời

Ảnh minh họa

Căn cứ quy định tại điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự, thời hạn chuẩn bị xét xử đối với tranh chấp về quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất là 4 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án. Nếu vụ án có tính chấp phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì chánh án tòa án có thể gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 2 tháng. Theo đó, kể từ ngày thụ lý vụ án, thời hạn tối đa để tòa án đưa vụ án ra xét xử là 6 tháng theo quy định (kể cả thời gian gia hạn, nếu có).

Cũng theo điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự, trong thời hạn một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, tòa án phải mở phiên tòa; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là hai tháng.

Như vậy, tổng thời gian để tòa án mở phiên tòa kể từ ngày thụ lý vụ án là 8 tháng (với không quá 6 tháng chuẩn bị xét xử kể từ ngày thụ lý vụ án và không quá 2 tháng để mở phiên tòa từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử). Nếu kể từ ngày thụ lý vụ án đến nay đã gần 2 năm mà tòa án vẫn chưa đưa vụ án ra xét xử là không phù hợp với thời hạn luật định.

Cũng có thể do nhiều nguyên nhân khách quan nên tòa án chưa thể đưa vụ án ra xét xử, như sự bất hợp tác của nguyên đơn hoặc bị đơn, mất thời gian cho việc thẩm định chứng cứ hoặc công tác đo vẽ… Tuy nhiên, nếu bạn đã liên hệ tòa án (cụ thể là thư ký tòa hoặc trực tiếp gặp thẩm phán thụ lý vụ án) mà không nhận được sự giải thích thì căn cứ theo điều 396 Bộ luật tố tụng dân sự, bạn có quyền khiếu nại đến chánh án Tòa án Quận Thủ Đức để yêu cầu sớm đưa vụ án đã quá thời hạn ra xét xử.

Liên quan đến việc bạn có liên hệ Phòng tài nguyên - môi trường quận Thủ Đức nhưng không nhận được câu trả lời giải quyết vụ việc. Lý do có thể là bạn đã liên hệ không đúng cơ quan có thẩm quyền.

Căn cứ theo điều 136 Luật đất đai, đối với tranh chấp quyền sử dụng đất đã có giấy chứng nhận (trường hợp của bạn là sổ đỏ như bạn đã nêu) thì thẩm quyền giải quyết thuộc tòa án nhân dân. Do đó, Phòng tài nguyên - môi trường quận Thủ Đức không thể trả lời câu hỏi của bạn về thời gian giải quyết vụ việc tranh chấp quyền sử dụng đất giữa bạn và người sử dụng đất bên cạnh, vì vụ việc này do tòa án giải quyết.

Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi của mình, ngoài việc tranh chấp đã được thụ lý bởi tòa án, bạn có thể gửi đơn khiếu nại đến UBND quận (là cơ quan đã cấp giấy chứng nhận đối với quyền sử dụng đất) về việc cấp giấy chứng nhận không đúng diện tích, bị chồng lấn ranh, gây ảnh hưởng đến việc sử dụng đất của gia đình bạn, để cơ quan này nhanh chóng xem xét, điều chỉnh lại giấy chứng nhận của bạn và người đang tranh chấp.

Tiến sĩ luật Đặng Anh Quân
(Theo TTO)


Nguồn: batdongsan.com.vn

Có được bán nhà khi đang cho thuê không?

09:28 |

Hỏi: Tôi có ký hợp đồng công chứng cho vợ chồng người bạn thuê nhà trong thời hạn 02 năm. Do chồng tôi chuyển công tác nên chúng tôi có ý định bán căn nhà này. Tôi có được phép bán nhà trong thời gian cho thuê không? (Vũ Thanh Thảo; Email:Thaott78@yahoo.com).

Trả lời

Ảnh minh họa

Vì chúng tôi không được biết nội dung cụ thể trong hợp đồng thuê nhà là như thế nào. Do vậy, chúng tôi tư vấn theo nguyên tắc chung:

Tại Điều 97 Luật Nhà ở (LNO) quy định: “Trường hợp chủ sở hữu bán nhà ở đang cho thuê thì phải thông báo cho bên thuê nhà ở biết về việc bán và các điều kiện bán nhà ở; bên thuê nhà ở được quyền ưu tiên mua nếu không có chỗ ở khác và đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của bên thuê nhà ở, trừ trường hợp nhà ở thuộc sở hữu của cá nhân và nhà ở thuộc sở hữu chung. Trong thời hạn một tháng, kể từ ngày bên thuê nhà ở nhận được thông báo mà không mua thì chủ sở hữu nhà ở được quyền bán nhà ở đó cho người khác, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác về thời hạn”.

Tại khoản 2 Điều 104 LNO thì: “Trường hợp chủ sở hữu nhà ở chuyển quyền sở hữu nhà ở đang cho thuê mà thời hạn thuê nhà ở vẫn còn thì bên thuê nhà ở được tiếp tục thuê đến hết hạn hợp đồng; chủ sở hữu nhà ở mới có trách nhiệm tiếp tục thực hiện hợp đồng thuê nhà ở đã ký kết trước đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác”.

Theo quy định nêu trên bạn có quyền được bán nhà khi còn thời hạn cho thuê. Tuy nhiên, khi bán nhà bạn phải thực hiện việc thông báo theo quy định tại điều 97 nêu trên. Vì là chỗ bạn bè, do vậy tốt nhất bạn nên thông báo sớm để cả hai bên tìm ra hướng giải quyết có lợi và đảm bảo thiện chí. Chúng tôi tin tưởng bạn của bạn sẽ hiểu vấn đề và giải quyết theo hướng thuận lợi cho cả hai phía.
Luật sư Vũ Thị Hiên
(Theo Dantri)


Nguồn: batdongsan.com.vn

Khởi kiện đòi lại đất được không?

09:28 |

Tôi đang gặp một số vướng mắc về mảnh đất hiện nay của gia đình nhưng chưa tìm hướng giải quyết được, mong nhận được ý kiến.

Xin tóm tắt thế này:

Ông bà T có một mảnh đất 800m2, có 4 người con: 2 trai A, B và 2 người con gái C,D. Con trai cả A sống cùng ông bà T, những người con khác đã lập gia đình và sống riêng ở nơi khác. Khoảng năm 2005, ông T nói cho vợ chồng anh A toàn bộ 800m2 đất, tuy nhiên bà T không đồng ý. Sau đó ông bà đã quyết định cho người con cả 600m2 và 200m2 cho người con trai thứ là B. 2 người con gái từ chối không nhận. Sự việc này không được lập thành văn bản mà chỉ là thỏa thuận giữa các thành viên trong gia đình.

Sau đó, chính quyền xã đã đo đạc đất 600m2 cho người con cả là A và 200m2 cho con trai thứ là B. Mọi người trong gia đình bao gồm: ông T, A, B, C, D đã ký vào biên bản xác nhận trong giấy đo ngày hôm ấy (trích đo). Bà T không ký (tuy nhiên thời điểm ấy bà vẫn đồng ý để ông ký). Toàn bộ hồ sơ đã được lưu giữ ở phòng địa chính. Sau đó khoảng năm 2008 thì người con trai cả đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng các thủ tục của Luật đất đai, còn sổ đỏ của người con trai thứ là B cũng đang được hoàn thành.

Năm 2010 ông T mất, bà T đòi lại toàn bộ đất. Sau đó UBND xã đã tiến hành hòa giải tại UBND xã, anh A và bà T cùng các con gái là C, D đã ký vào biên bản hòa giải của xã là anh A sẽ cắt cho bà T 300m2 đất. Anh A sau đó không đưa sổ đỏ để bà T làm sổ đỏ đứng tên mình. Bà T đòi khởi kiện ra tòa.

Lưu ý: Toàn bộ diện tích đất này trước đây thuộc quyền chiếm hữu của công ty thực phẩm nhà nước. Ông bà T là công nhân nên ở trên diện tích đất ấy khoảng từ năm 1985, cho đến khi công ty giải thể thì đất của công ty ấy đều do những công nhân làm việc ở đấy sử dụng và đều được cấp sổ đỏ.

Khi lập biên bản hòa giải ở xã, vợ anh A không được mời đến mặc dù vợ anh A cũng góp sức mua thêm một diện tích đất và khi chia lại diện tích này có rơi vào phần chia cắt lại giữa bà T, anh A và anh B. Vợ anh A không đồng ý với biên bản này.

Hỏi: Bà T có khởi kiện ra tòa đòi lại đất được không? Anh A không thực hiện theo biên bản hòa giải ở cấp xã có bị cưỡng chế phải giao sổ đỏ? - bily nhim, (bilynhim@...)

- Trả lời:

Ảnh minh họa

1. Quyền khởi kiện tranh chấp đòi lại đất

Theo quy định tại Khoản 6 Điều 105 Luật đất đai, người sử dụng đất có quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm quyền sử dụng đất hợp pháp của mình và những hành vi khác vi phạm pháp luật đất đai. Đây là một trong những quyền chung của người sử dụng đất.

Do đó, khi có tranh chấp mà không hòa giải được, muốn đòi lại đất, bà T có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp của mình.

Theo quy định tại Điều 135 và Điều 136 Luật đất đai, khi hòa giải không thành tại UBND cấp xã, các bên có quyền khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất tại tòa án nếu đất đã có giấy chứng nhận hợp pháp đối với quyền sử dụng đất hoặc giấy tờ quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật đất đai; hoặc đưa tranh chấp đến UBND (cấp huyện hoặc cấp tỉnh, tùy thẩm quyền) nếu đất không có giấy chứng nhận hợp pháp đối với quyền sử dụng đất và cũng không có giấy tờ quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật đất đai.

Do đất của anh A đã được cấp giấy chứng nhận, nên nếu kết quả hòa giải tại UBND cấp xã không được thực hiện thì bà T có thể khởi kiện ra tòa án để tranh chấp đòi lại đất.

Tương tự, nếu vợ anh A không đồng ý với kết quả hòa giải do cho rằng kết quả này xâm phạm đến quyền sử dụng đất của mình thì cũng có quyền tranh chấp, khởi kiện theo thủ tục nêu trên.

Ai nhận được quyền sử dụng đất sẽ được xác định trên cơ sở phán quyết của tòa án.

2. Có hay không việc cưỡng chế khi không thực hiện theo biên bản hòa giải tại UBND cấp xã?

Hòa giải là sự tự nguyện thỏa thuận của các bên. Pháp luật đất đai hiện nay chưa có quy định cụ thể về hiệu lực của biên bản hòa giải thành và việc cưỡng chế thực hiện theo kết quả hòa giải. Điều 135 Luật đất đai và Điều 159 Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29-10-2004 chỉ quy định biên bản hòa giải được gửi đến các bên tranh chấp và lưu tại UBND cấp xã; nếu kết quả hòa giải khác với hiện trạng sử dụng đất thì UBND cấp xã chuyển kết quả hòa giải đến cơ quan tài nguyên và môi trường để giải quyết.

Như vậy, anh A sẽ không bị cưỡng chế dù không thực hiện theo thỏa thuận đã được ghi nhận trong biên bản hòa giải. Đây cũng là một thực tế thường xảy ra trong các vụ tranh chấp đất đai. Khi đó, các bên có thể tiếp tục hòa giải lại hoặc đưa vụ việc đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp (tòa án hoặc UBND cấp huyện hoặc cấp tỉnh, tùy theo thẩm quyền) như đã nêu trên.

Tiến sĩ luật Đặng Anh Quân- ĐH Luật TP.HCM
(Theo Tuổi trẻ)


Nguồn: batdongsan.com.vn

Phải làm gì để được hưởng thừa kế của cha?

09:27 |

Hỏi: Bố tôi cháu ly hôn, theo phán quyết của Tòa, mẹ tôi nuôi tôi. Sau khi ly hôn khoảng gần 2 năm bố tôi mất. Ý nguyện của bố mẹ tôi là nhà đất này để làm nơi thờ cúng tổ tiên. Tôi phải làm gì để được hưởng thừa kế? (Nguyễn Trường Giang; Email: Giang_ĐHXD@yahoo.com).

Trả lời

Ảnh minh họa

Theo quy định tại  điểm a Khoản 1  Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 (BLDS)  quy định: “1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.

Theo bạn trình bày thì trường hợp của bạn không thuộc quy định tại Khoản 1 Điều 643 BLDS:  “Những người sau đây không được quyền hưởng di sản: a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản”.

Bạn cũng không từ chối nhận di sản thừa kế theo quy định tại Điều 642 BLDS, do vậy loại trừ trường hợp bạn không được hưởng di sản thừa kế. Bộ luật dân sự chưa có quy định nào bắt buộc người hưởng thừa kế phải ở cùng người để lại di sản thừa kế. Như vậy, theo quy định nêu trên thì bạn thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bố bạn. Tốt nhất, bạn nên giải thích để ông bà nội bạn hiểu và làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế, chia thừa kế theo pháp luật.

Trường hợp, nếu ông bà nội bạn thống nhất và đồng ý với ý nguyện của bố bạn trước khi mất và của mẹ bạn thì tất cả các đồng thừa kế liên hệ phòng công chứng nơi có nhà đất để làm thủ tục kê khai di sản thừa kế, vì bố bạn mất quá 6 tháng do vậy, ông bà nội bạn vẫn nhận phần di sản của mình sau đó tặng cho lại cho bạn, đồng thời mẹ bạn cũng làm tặng cho phần của mẹ bạn cho bạn, mục đích nhà đất để thờ cúng tổ tiên. Trường hợp, nếu mẹ bạn không tặng cho phần mẹ bạn thì bạn và mẹ bạn sẽ là đồng sở hữu nhà đất nêu trên. Nếu ông bà nội bạn không đồng ý, thì bạn cùng mẹ bạn khởi kiện tới Tòa có thẩm quyền để yêu cầu chia di sản thừa kế.
Luật sư Vũ Thị Hiên
(Theo Dantri)


Nguồn: batdongsan.com.vn

Có được ủy quyền cho người khác bán đất được không?

09:25 |

Hỏi: Hai chị em chúng tôi là đồng sở hữu một thửa đất, nay chúng tôi muốn bán mảnh đất đó. Hiện tại em tôi đang sinh sống tại Vũng Tàu không thể ra Hà Nội ký hợp đồng bán đất được. Em tôi có thể ủy quyền cho người khác bán đất được không? (Nguyễn An Hà-Anha55@gmail.com.vn).

Trả lời

Ảnh minh họa

Căn cứ theo khoản 1, Điều 48, Nghị định 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ thì: “Trong trường hợp bên uỷ quyền và bên được uỷ quyền không thể cùng đến một cơ quan nhà nước có thẩm quyền công chứng, chứng thực, thì bên ủy quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công chứng, chứng thực nơi thường trú hoặc tạm trú có thời hạn của họ công chứng, chứng thực hợp đồng ủy quyền; bên được uỷ quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công chứng, chứng thực nơi họ thường trú hoặc tạm trú có thời hạn công chứng, chứng thực tiếp vào bản gốc hợp đồng ủy quyền này, hoàn tất thủ tục công chứng, chứng thực hợp đồng uỷ quyền”.

Trường hợp của bạn hoàn toàn có thể tiến hành ủy quyền công chứng hai nơi. Em bạn đến Phòng/Văn phòng công chứng có thẩm quyền tại Vũng Tàu để làm Hợp đồng ủy quyền ký cho người ngoài Hà Nội được thực hiện các thủ tục để chuyển nhượng đất. Sau đó người được nhận ủy quyền mang theo Hợp đồng ủy quyền đã được người ủy quyền ký tại cơ quan công chứng tại Vũng Tàu đến Phòng/Văn phòng công chứng tại Hà Nội để ký vào Hợp đồng ủy quyền. Như vậy bạn và em không cần phải mất nhiều thời gian để đi lại mà vẫn có thể bán được đất theo đúng thủ tục, hoàn toàn hợp pháp.

Lưu ý: Hợp đồng ủy quyền này chỉ có hiệu lực kể từ ngày Bên nhận ủy quyền tiến hành ký tên xác nhận đồng ý với nội dung ủy quyền và nhận thực hiện các nội dung ủy quyền trên của Bên ủy quyền trước mặt Công chứng viên tại Phòng Công chứng/Văn phòng Công chứng có thẩm quyền.
Công chứng viên Bùi Văn Dòn
(Theo Dantri)


Nguồn: batdongsan.com.vn

Có được đòi lại đất bỏ từ năm 1980 không?

09:24 |

Hỏi: Khoảng năm 1980, mẹ tôi là cán bộ xã và được chủ tịch xã cấp cho một nền đất nhưng không có giấy tờ (chỉ nói miệng). Sau đó, mẹ tôi kết hôn và về quê ba sinh sống.

Khoảng một năm sau, ông B. thấy đất trống nên có ý mua lại nhưng không gặp được mẹ tôi, nên tự ý cất nhà trên phần đất đó và sống cùng với gia đình cho đến ngày nay.

Xin hỏi, bây giờ tôi muốn đòi lại miếng đất ấy từ ông B. thì có căn cứ không? Tôi phải làm sao? Ng Tan Kiet (ntkiet61@... )

Trả lời

Ảnh minh họa

Về căn cứ pháp lý trong trường hợp này, khả năng bạn đòi đất thành công là rất thấp.

Thứ nhất, mẹ của bạn được cấp đất chỉ thông qua nói miệng, hoàn toàn không có giấy tờ gì. Quan trọng hơn, theo Quyết định số 201/CP ngày 1-7-1980 của Hội đồng Chính phủ, UBND cấp xã không có thẩm quyền giao bất cứ loại đất nào. Do đó, có thể nói không có căn cứ về việc mẹ bạn đã được Nhà nước giao đất theo quy định.

Ngoài ra, sau khi bắt đầu sử dụng đất, mẹ của bạn cũng không làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Thứ hai, nguyên tắc của pháp luật về đất đai qua các thời kỳ, đối với đất chưa có giấy tờ về quyền sử dụng, người đang trực tiếp sử dụng đất là chủ thể được Nhà nước xem xét công nhận quyền sử dụng đất.

Thứ ba, mẹ của bạn đã không đòi đất trong thời gian quá dài (hơn 20 năm) nên có cơ sở để cơ quan giải quyết tranh chấp nhận định mẹ bạn đã từ bỏ quyền sở hữu.

Về thủ tục, trường hợp bạn vẫn muốn đòi lại đất, trước tiên, bạn cần gửi đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đến UBND cấp xã. UBND cấp xã có trách nhiệm tổ chức hòa giải trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được đơn.

Trường hợp hòa giải không thành, hoặc quá 30 ngày kể từ ngày UBND cấp xã nhận được đơn mà buổi hòa giải không được tổ chức, bạn có thể khởi kiện đến chủ tịch UBND cấp huyện nếu đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Còn trường hợp thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận, thẩm quyền giải quyết tranh chấp là của tòa án nhân dân huyện nơi có đất.

Thân ái chào bạn.
Luật sư Huỳnh Văn Nông
(Theo TTO)


Nguồn: batdongsan.com.vn

Có được quyền đơn phương hủy hợp đồng ủy quyền không?

09:24 |

Hỏi: Trước đây tôi có ký Hợp đồng ủy quyền cho một cá nhân khác được thế chấp, chuyển nhượng nhà đất của tôi. Nay, tôi muốn hủy Hợp đồng ủy quyền đó, nhưng người được ủy quyền không chịu ký. Tôi có quyền đơn phương hủy Hợp đồng ủy quyền đó không? (Duy Mạnh, Ngọc Khánh, Ba Đình, Hà Nội).

Trả lời

Ảnh minh họa

Vấn đề của bạn quan tâm là hiện nay bạn có thể đơn phương hủy Hợp đồng ủy quyền đã ký trước đây cho người khác hay không? Theo quy định tại Khoản 1, Điều 588 Bộ Luật dân sự 2005, có quy định như sau:

“Trong trường hợp uỷ quyền có thù lao, bên uỷ quyền có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào, nhưng phải trả thù lao cho bên được uỷ quyền tương ứng với công việc mà bên được uỷ quyền đã thực hiện và bồi thường thiệt hại; nếu uỷ quyền không có thù lao thì bên uỷ quyền có thể chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên được uỷ quyền một thời gian hợp lý.

Bên uỷ quyền phải báo bằng văn bản cho người thứ ba biết về việc bên uỷ quyền chấm dứt thực hiện hợp đồng; nếu không báo thì hợp đồng với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp người thứ ba biết hoặc phải biết về việc hợp đồng uỷ quyền đã bị chấm dứt".

Ngoài ra nếu trong Hợp đồng ủy quyền có ghi thời hạn ủy quyền, thì hết thời hạn ủy quyền Hợp đồng ủy quyền cũng đương nhiên chấm dứt hiệu lực.

Để đảm bảo cho bạn trong trường hợp này, bạn có thể làm đơn hoặc nhờ luật sư làm đơn để thông báo việc đơn phương hủy công việc đã ủy quyền của mình, sau đó gửi cho các cơ quan có thẩm quyền được biết để đảm bảo người được ủy quyền không thực hiện các công việc xâm phạm đến quyền, lợi ích của mình.
Công chứng viên Bùi Văn Dòn
(Theo Dân trí)


Nguồn: batdongsan.com.vn